Cải cách của Lê Thánh Tông
Thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, bước vào công cuộc xây dựng đất nước theo thiết chế chính trị của nhà Trần. Ở TW, dưới vua gồm các quan đại thần giúp vua trông coi việc nước như các chức tả, hữu Tướng quốc, Bình Chương, đại Hành khiển, tả hữu Bộc xạ. Dưới còn có những cơ quan trọng trách như Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Trung thư sảnh, Khu mật Viện,… Các bộ gồm những ban, phòng nằm trong cơ quan Thượng thư sảnh. Một số cơ quan chuyên môn cũng góp mặt như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Quốc tử giám,… Ở địa phương, ta có thể thấy được chính quyền chia cả nước thành 5 đạo do Hành khiển đứng đầu; dưới đạo là 24 lộ do An phủ sứ đứng đầu (đây là thể chế mà nhà Trần đã phân chia trước đó); dưới lộ là huyện, châu và xã.
Các đời vua kể từ sau khi Lê Thái Tổ băng hà đều là những người kế vị nhỏ tuổi (Thái Tông lên ngôi vua năm 10 tuổi, Nhân Tông lên ngôi vua năm 2 tuổi); với việc ấy, khả năng lãnh đạo của ngôi vua dường như không có, ngai vàng có thể bị lật đổ bất cứ lúc nào, nội bộ triều đình mâu thuẫn, giết hại lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Không những thế, các quan đại thần trong triều cũng dần dần bị giết như Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú,… Quan lại thì tham ô, hối lộ tràn đầy; vơ vét dân là những hành vi không thể tránh khỏi.
Các làng xã đương thời vẫn mang tính tự trị cao, vẫn nắm quyền hành quản lý và phân chia ruộng đất công theo tập tục của làng đó, mặc dù nhà nước vẫn đang nắm quyền sở hữu ruộng đất. Cho ta thấy quyền sở hữu ruộng đất tối cao của nhà nước vẫn chưa hoàn toàn được xác lập. Mối quan hệ sản xuất giữa địa chủ – nông dân lệ thuộc vẫn còn chưa trở thành mối quan hệ kinh tế chủ đạo thống trị trong xã hội. Có lẽ vậy mà chế độ quân chủ quan liêu mà nhà Hồ thiết lập trước đó vẫn chưa có được cơ sở vững chắc để được xác lập và phát triển. Chính những điều này đã đưa ra yêu cầu phải có một người đủ năng lực đứng ra để canh tân đất nước, cải cách quốc gia không chỉ trên phương diện chính trị mà còn cả trong lĩnh vực kinh tế- xã hội đương thời. Và cuộc cải cách của Lê Thánh Tông cuối TK XV là một trong những cuộc cải cách đáng để ta khai thác và tìm hiểu.
Lê Thánh Tông húy là Tư Thành, sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 144, là con thứ của vua Lê Thái Tông và Ngô Thị Ngọc Dao. Năm 1445, vua Lê Nhân Tông phong ông làm Bình nguyên vương. Năm 1460, Nguyễn Xí cầm đầu các quan và tướng sĩ trung thành với nhà Lê lật đổ Nghi Dân, đưa Tư Thành lên ngôi vua, lúc ấy, ông 18 tuổi. Với 38 năm nắm giữ ngôi vua (1460-1497), Lê Thánh Tông đã thi hành hàng loạt các quyết sách để đưa đất nước hưng thịnh trở lại, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của xã hội đương thời.
Với nhu cầu thu góp quyền hành cao nhất về tay vua, ổn định chính trị, an dân đời sống, Lê Thánh Tông thi hành hàng loạt các quyết sách đầu tiên. Ông bãi bỏ cơ quan và quan chức trung gian giữa vua và cùng các bộ phận thừa hành đó là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật viện cùng các quan chức cấp cao như Tể tướng, Đại hành khiển, tả, hữu Bộc xã… Kể từ đó, quyền hành tập trung cao nhất ở tay vua, vua nắm về cả quân sự lẫn chính trị và cả về việc quan hệ với các cơ quan thừa hành. Trợ giúp cho ông trong những lúc cấp thiết có các chức quan như Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu bảo,…
Quản lý nhà nước ở Trung ương gồm 6 bộ (Lại, Lễ, Binh. Hình, Công, Hộ) phụ trách các công việc khác nhau của nhà nước. Có nhiệm vụ trợ giúp cho 6 bộ là 6 tự. Đứng đầu mỗi bộ là chức Thượng thư chịu trách nhiệm trực tiếp với vua về các hoạt động, sai phạm, có công với bộ mà mình phụ trách. Nhằm tăng cường quản lý hoạt động của các quan lại ở 6 bộ (ngoài Ngự sử đài), Lê Thánh Tông đăth thêm 6 khoa; mỗi khoa sẽ ứng với một bộ để theo dõi, giám sát các hoạt động của hệ thống quan chức bộ đó.
Ngoài ra, Lê Thánh Tông còn sắp xếp lại hệ thống hành chính từ cấp trung gian đến làng xã theo cải cách của mình. Năm 1466, Lê Thánh Tông bãi bỏ đơn vị trung gian lớn là 5 đạo, chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Tường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, phủ Trung Đô). Đến năm 1471, Lê Thánh Tông đặt thêm thừa tuyên thứ 13- Quảng Nam. Dưới mỗi thừa tuyên là phủ, châu, huyện, xã; bỏ đơn vị trấn và lộ, đổi lộ làm phủ, trấn làm châu.
Thay đổi một số mặt trong bộ máy các cấp cũng là một trong những chính sách cải cách của Lê Thánh Tông. Về mỗi đạo thừa tuyên, đều có 3 ti ngang quyền quyền nhau, cùng nhau quản lí công việc chung. Đô tổng binh sứ ti (Đô ti) quản lý về quân sự; Thừa tuyên sứ ti (Thừa ti) quản lý về trông coi mặt dân sự; Hiến sát sứ ti (Hiến ti) quản lý về thanh tra công việc của quan lại ở địa phương mình, xem xét đời sống nhân dân mình và những ti ấy sẽ chịu trách nhiêm trực tiếp với triều đình theo hệ thống dọc. Đứng đầu mỗi phủ có Tri phủ, đứng đầu mỗi huyện là Tri huyện, chức xã quan đổi thành xã trưởng. Xã ở thời của Lê Thánh Tông được phân làm 4 nhóm theo số lượng dân cư: đại xã gồm 500 hộ dân trở lên với 5 xã trưởng; trung xã gồm từ 300 hộ đến dưới 500 hộ với 4 xã trưởng; tiểu xã gồm 100 hộ đến dưới 300 hộ với 2 xã trưởng; dưới 60 hộ có 1 xã trưởng riêng. Ở phủ Trung đô, quan quản lý ở đó gọi là Phủ doãn, Thiếu doãn và Thị lang. Đứng đầu mỗi châu gọi là chức Tri châu.
Vua Lê Thánh Tông chủ trương sử dụng người ngoại tộc để trao các chức quan trong triều. Người được tiến thân vào cung nắm giữ các chức phải được thông qua khoa cử, không phân biệt xuất thân từ đâu. Bãi bỏ phương thức tuyển dụng các vương hầu hay quý tộc vào các chức quan cao cấp. Thân vương hay công hầu được ban cho bổng lộc, hưởng nhiều quyết sách nhưng nếu như không có tài năng, không đỗ đạt thì việc tiến thân sẽ bị ảnh hưởng, không được làm quan. Ở địa phương, quan lại từ cấp đạo thừa tuyên đến cấp xã cũng phải có trình độ học vấn nhất định mới được bổ dụng và các chức quan. Cấp châu, huyện phải là những người đã “có chân thi thi Tiến sĩ đỗ tam trường”, cấp xã phải xét đến những người biết chữ, có tài cán mới được bổ nhiệm. Nếu không biết chữ phải cho nghỉ ngay.
Trong việc sử dụng, thăng, giáng chức đề được căn cứ và thực hiện theo những tiêu chí cụ thể về năng lực và phẩm chất. Cơ sở để thăng hay giáng chức gọi là khảo khóa; Lê Thánh Tông đã quy định về khảo khóa (tiến hành kiểm tra tiêu chuẩn, tài năng, đức độ, công, tội của các quan chức theo định kỳ nhất định) cứ 3 xét sơ khảo, 3 năm tiếp theo xét lần thứ hai, 3 năm cuối cùng (tất cả đủ 9 năm) chúng khảo để ra quyết định thăng, chuyển ngạch hay giáng chức, xuống ngạch.
Bấy giờ, thưởng phạt dưới thời vua Lê Thánh Tông cũng được kiểm soát rất nghiêm ngặt. Cho dù có là quan văn võ cao cấp ở triều đình, họ nội- ngoai của vua hay cháu con của khai quốc công thần cũng đều phải theo lệ khảo khóa xem xét có xứng chức và đủ thời gian mới được thăng thưởng (hàng nhất- nhị phẩm) và phải qua bộ Lại kiểm tra rồi mới được tâu lên vua, vua xem xét rồi mới xuống chỉ cho thi hành. Riêng có trường hợp “con nhà dân do chân trắng hoặc lấy chiến công mà làm việc đủ niên hạn và xứng chức, lệ được thăng cấp, chỉ cho thăng tam phẩm trở xuống; nếu trong 9 năm đã do công khác thăng cấp rồi, mà thông khảo lại xứng chức nên thăng đến nhị phẩm trở lên thì Lại bộ tâu lên vua, tam phẩm trở xuống thì cứ theo lệ thi hành. Người nào có biệt tài, được đặc chỉ thăng bổ, thì không cứ lệ ấy”. Quan lại xuất thân từ con em bình dân, cứ dựa vào tài đức và quân công, thông qua chế độ khảo khóa để xác nhận và thăng bổ đến cao cấp.
Năm 1466, vua Lê Thánh Tông bắt đầu công cuộc cải cách về quân sự. Quân đội thời này được chia làm 2 loại: Quân thường trực bảo vệ kinh thành (cấm binh hay thân binh) và quân ở các đạo (ngoại binh). Cứ mỗi đạo như thế, ông chia làm 5 phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ gồm 5-6 sở. Mỗi phủ do một Đô đốc phủ thống suất. Thân binh chia làm nhiều vệ, dưới vệ có sở hoặc ti. Lê Thánh Tông đổi mới tổ chức cấm quân, bãi bỏ chế độ quân thiệt đột có từ thời vua Thái Tổ, đặt ở kinh thành 2 vệ quân kim ngô và Cẩm Y; 4 vệ hiệu lực; 4 vệ thần vũ; 6 vệ điện tiền; 5 vệ tuần tượng và 4 vệ mãn nhàn. Tổ chức xây dựng quân điện tiền thường xuyên canh gác để thay cho lực lượng quân thiết đột. Đến thời kỳ này, không còn vương quân hay hầu hay sương quân như trước, vua Lê bãi bỏ chế độ quân 5 đạo của thời Thái Tổ đến đời Nghi Dân trước đó.
Binh chế thời vua Lê năm 1467, quân ở Kinh được phiên chế thành các ti, vệ, sở, đội. Mỗi ti có 100 người; mỗi vệ có từ 5-6 sở; mỗi sở có 20 đội; mỗi đội có 20 người. Tất cả có khoảng 66 ti, 300 sở, 120.000 quân. Quân ngũ phủ có 30 vệ, 154 sở, 61.000 người. Ở địa phương có 27 vệ, 257 sở, 137.000 người. Tổng cộng quân số vào khoảng 317.000 người. Lê Thánh Tông thực hiện thi sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội; từ đó chia cả quân đội thành 2-3 phiên; cứ theo vậy định kỳ có một phiên túc trực và luyện võ, còn lại trở về sản xuất nâng cao kinh tế.
Quân đội nhà Lê gồm thủy binh, bộ binh, tượng binh và kỵ binh; có các đơn vị dùng sung lửa (hỏa đồng). Năm 1465, triều đình ban bố 31 điều quân lệnh về thủy trận, 32 điều về tượng trận, 27 điều về mã trận, 42 điều về bộ trận. Năm 1467, quy định 3 năm mở một kỳ thi võ để khuyến khích quân sĩ chăm lo luyện tập. Nhờ vậy mà quân đội thời vua Lê Thánh Tông có trình độ kĩ thuật và tác chiến khá cao so với đương thời.
Lê Thánh Tông thi hành chính sách ban phát ruộng lộc cho giới quý tộc, quan lại (chế độ lộc điền). Đến năm 1477, mới quy định về chế độ lộc điền và ban hành trong cả nước. Ruộng đất ban cấp chủ yếu là ruộng đất công làng xã và lộc điền gồm 2 loại: một loại cấp vĩnh viễn (ruộng đất thế nghiệp) và một loại cấp tạm thời trong một đời (sau khi chết 3 năm phải hoàn lại cho Nhà nước). Cũng theo quy định này, tổng diện tích đất cấp cho thân vương là 2090 mẫu trong đó có 640 mẫu cấp vĩnh viễn, tòng Tứ phẩm được cấp 39 mẫu. Đây là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô do nhà Lê đưa ra để góp phần tăng ưu đãi cho giới quý tộc quan lại cấp cao, từ đó biến họ thành những tên địa chủ lớn.
-Ngoài chính sách lộc điền, năm 1477, Lê Thánh Tông chính thức ban hành chính sách quân điền (trước đó đã được thực hiện lẻ tẻ ở đời Thái Tổ, Thái Tông) và đến năm 1481 thì được thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước và thực hiện theo những nguyên tắc:
Mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia ruộng đất công. Gia đình nào đã có ruộng đất riêng đầy đủ thì không được cấp.
Ruộng đất xã nào thì chia dân xã ấy, xã nào ruộng nhiều mà người ít thì cho phép lấy bớt ruộng đất xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy vào xuất thân mà được cấp đất khác nhau; quan tam phẩm 11 phần; ngũ phẩm được 9,5 phần,… cô nhi quả phụ thì 3 phần.
Ruộng công làng xã cứ 6 năm thì chia lại 1 lần. Ai tham gia cày cấy ruộng công đều phải nộp tô cho nhà nước; riêng quan lại từ hạng tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên không phải nộp tô.
-Chính sách khẩn hoang và đồn điền để phục hồi nền nông nghiệp sau chiến tranh cũng được nhà Lê sơ chú trọng nhưng phải đến đời vua Lê Thánh Tông thì quyết sách này lại được đề cao hơn trong tất cả đời vua của thời Lê sơ. Khuyến khích nhân dân ở các làng xã chủ trương khai hoang mở đất lập làng được vua Lê rất chú trọng. Theo một số tài liệu ghi rằng điều 349 của Luật Hồng Đức quy định việc khai hoang hết diện tích cày cấy thành pháp lệnh của Nhà nước. Theo đây, vua Lê Thánh Tông đã xuống nhiều chỉ dụ để thúc đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, lập làng và theo đó cũng hợp pháp hóa việc khai hoang ấy.
Cùng với khai hoang mở đất, Vua Lê Thánh Tông cũng chú trọng chính sách việc khai hoang lập đồn điền. Từ đó, nhiều sở đồn điền được thành lập để chuyên lo mộ dân lưu von khẩn hoang. Vua Lê cũng nêu rõ mục đích việc khai hoang lập đồn điền là để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho đất nước. Với việc khai hoang ấy, sẽ do lực lượng quân lính đồn trú, tù binh và tội nhân. Lê Thánh Tông đặt ra các cơ quan chuyên trách do các chức quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách. Theo Thiên Nam dư hạ tập, bấy giờ cả nước có tất cả 43 sở đồn điền (Bắc Bộ có 30 sở, Tung Bộ có 13 sở)
Từ thời vua Lê Thái Tổ đã biết đề cao việc xây dựng pháp quyền, bàn với các quan đại thần về những luật lệ kiện tụng và phân chia ruộng đất công làng xã. Đến thời Thái Tông thì xây dựng thêm một số pháp chế về xử lý kiện tụng và đề ra luật nghiêm cấm việc hối lộ. Thời Nhân Tông ban hành liên tiếp các điều luật về quyền thừa kế ruộng đất, quyền lợi và nhiệm vụ của quan lại, quân lính cùng với việc bảo vệ thiết chế quân chủ.
Nhưng đến thời vua Lê Thánh Tông, năm 1483, ông đã triệu tập các quan đại thần để tập hợp toàn bộ những điều luật trước đó của các vua Lê, tham khảo pháp luật thời Lý- Trần cùng với tình hình đất nước đương thời mà soạn thành một bộ luật mới. Đó là Luật Hồng Đức hay Lê triều hình luật ; bộ luật này gồm 722 điều, luật, chia làm 6 quyển, 16 chương.
+ Quyển 1 có 2 chương: Danh lệ (49 điều), Cấm vệ (47 điều)
+ Quyển 2 có 2 chương: Chức chế (144 điều), Quân chính (43 điều)
+ Quyển 3 có 6 chương: Hộ hôn (58 điều), Điền sản (32 điều), Điền sản mới (14 điều), Điền sản tăng bổ (4 điều), Xem xét định lại và tăng bổ bộ luật Hương hỏa (9 điều), Thông gian (10 điều)
+ Quyển 4 có 2 chương: Đạo tặc (54 điều), Đấu tụng (50 điều)
+ Quyển 5 có 2 chương: Trá nguỵ (38 điều), Tạp luật (92 điều)
+ Quyển 6 có 2 chương: Bộ vong (13 điều), Đoản ngục (65 điều)
Với sự đặc sắc mà bộ luật này mang lại, Giáo sư Oliver Oldman, chủ nhiệm khoa Luật Đông Á, thuộc trường Luật Đại học Harward, đã đánh giá: “Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ vùng đại Đông Á truyền thống. Nếu ở ngày nay chúng ta được chứng kiến ở nước Trung Hoa một cuộc đấu tranh nhằm từ bỏ sự vô tổ chức sau cách mạng văn hóa và đi tới soạn thảo luật pháp nhằm hiện đại hóa đất nước, thì chúng ta thấy triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào những thế kỷ đặc sắc của mình đã nỗ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh như thế nào để bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người thông qua một hệ thống pháp luật tiến bộ, trong đó, có nhiều điều đã có thể so sánh ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật phương Tây cận hiện đại”
Như ta biết, những cải cách của Hồ Qúy Ly nhằm xây dựng thiết chế quân chủ quan liêu đã nhanh chóng đi vào suy tàn với sự sụp đổ của nhà Hồ. Thiết chế chính trị như thế chưa rõ ràng và bộc lộ ra nhiều điều chưa hoàn chỉnh và tính phân tán còn cao. Và sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, ông đã nhận ra được những điều ấy và tiến hành công cuộc canh tân đất nước trong bối cảnh đó.
Lê Thánh Tông đã góp phần xây dựng thiết chế chính trị thống nhất từ Trung ương đến địa phương, từ trên xuống dưới, bãi bỏ những chức quan làm giảm quyền hành của nhà vua, tập trung quyền hành tối cao vào tay vua. Nhờ vậy mà bộ máy dưới thời vua Lê Thánh Tông đã gọn gang và chặt chẽ hơn nhiều; được đánh giá là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến tập quyền đương thơi, là một biểu hiện cho sự xác lập chế độ quân chủ quan liêu nước ta lúc bấy giờ.
Quan lại được tiến cử cũng được thông qua thi cử và ông cũng bãi bỏ chế độ bổ dụng người trong hoàng tộc. Vua Lê còn đặt ra các chế độ xem xét quan lại để thăng- giáng chức, cũng là một phương pháp có hiệu quả để quản lý hoạt động của các quan lại. Thưởng phạt phân minh cũng được vua Lê Thánh Tông đề cao; điều này giúp cho hệ thống bộ máy nhà nước có được những vị quan tài giỏi và anh minh; loại bỏ những tham quan, những người không tài, không đức.
Quân sự được ông cải cách theo hướng tăng cường quyền lực ở Trung ương, hạn chế lại quyền lực tại địa phương. Xây dựng lực lượng quân đội cùng với việc tăng cường xây dựng phòng thủ đất nước, bảo vệ triều đình của nhà Lê. Chưa dừng lại ở việc dần hoàn thiện cơ cấu tổ chức của quân đội, vua Lê Thánh Tông cũng tiến hành canh tân về mặt quân sự cũng như quốc phòng nhằm phát huy được sức mạnh của quân đội, đồng thời cũng có thể phát triển kinh tế nông nghiệp vốn đang hiện hữu và trở thành nguồn kinh tế chính của dân tộc. Do đó, bộ máy cơ cấu quân đội dưới thời vua Lê đã hoàn chỉnh; vừa có quân ở triều đình và quân ở địa phương. Lực lượng quân đội bảo vệ thường trực mạnh mẽ cùng với lực lượng dự bị đông đảo có thể điều đi bất cứ lúc nào có hiệu lệnh phát quân.
Những chính sách, chế độ do vua Lê Thánh Tông đề ra cũng góp phần vào sự thành công của những cải cách do ông đề xướng. Với chế độ lộc điền, ông đã biến những tầng lớp quan lại, quý tộc dần trở thành những tên địa chủ lớn; góp phần vào sự thúc đẩy phát triển tư hữu ruộng đất cũng như dần xác lập nên mối quan hệ của địa chủ- tá điền trong xã hội nhà Lê. Chế độ lộc điền đã đánh một đòn vào chế đọ chiếm hữu ruộng đất của làng, xã, góp phần khẳng định sự sở hữu tối cao của nhà nước về ruộng đất.
Cùng với chế độ lộc điền, chính sách quan điền cũng chi phối quyền phân phong ruộng đất của làng xã theo tục lệ, theo đó làng xã phải tuân thủ theo quy định của nhà nước về việc phân phong và hưởng thụ đất công chặt chẽ từ Nhà nước. Điều này làm giảm quyền hành của làng xã, buộc họ không được mua bán, chuyển nhượng đất công mà quyền đó sẽ thuộc về Triều đình. Và nhờ đó nhà nước trở thành nơi tối cao về ruộng đất và nông dân trở thành lực lượng tá điền cho nhà nước trong khi làng xã lại bị biến thành những người quản lý ruộng đất cho nhà nước.
Góp phần không nhỏ vào việc thành công không thể không nhắc đến chính sách khẩn hoang và đồn điền do Lê Thánh Tông thúc đẩy mạnh dưới thời kỳ cai trị của ông. Những chính sách khẩn hoang và đồn điền giúp diện tích đất canh tác mỗi lúc một mở rộng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển; diện tích sản xuất ngày một tăng cao; tăng thêm nguồn lợi về kinh tế cho đất nước, phục hồi ngân sách nhanh chóng. Với chính sách này, Lê Thánh Tông đã thúc đẩy sự phát triển tự nhiên tích cực đến việc mở rộng diện tích sản xuất và phát triển nhanh chóng về nền kinh tế nông nghiệp vốn đang là chỗ dựa cho Đại Việt đương thời.
Với sự hoàn thiện của bộ Luật Hồng Đức, chúng ta có thể thấy Lê Thánh Tông đã biết kết hợp giữa tư pháp, hành pháp và lập pháp; để công bằng với mọi người khi phạm tội hoặc có chiến công. Dung hòa mâu thuẫn xã hội, khi đó, mọi người đều được bình đẳng và có quyền lợi ngang nhau. Bộ luật này cũng là cơ sở để nhà nước bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của mình; bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến đang càng ngày một tăng lên; củng cố trật tự xã hội phong kiến, thiết lập sự bảo vệ cho chế độ phụ quyền và các chuẩn mực đạo đức xã hội cũng được đề cao theo Nho giáo. Tuy thời kỳ này, nhà nước đi theo thiết chế phụ quyền nhưng vẫn có những điều luật bảo vệ cho quyền lợi của người phụ nữ; nó thể hiện phần nào tính dân tộc, sự dung hòa giới cũng như tiến bộ của bộ luật đầu tiên này. Không những thế, luật pháp thời Lê Thánh Tông đã hạn chế và thu nhỏ quyền cai trị độc lập của làng xã, tăng cường sự lệ thuộc của họ vào chính quyền Trung ương; từ đó thiết chế quân chủ quan liêu cũng ngày càng được củng cố và phát triển.
Thấy rõ nhất trong lối cải cách này của vua Lê Thánh Tông là sự ưu đãi đặc biệt cho lực lượng quý tộc và quan lại khi bổng lộc của hai tầng lớp này luôn được đề cao. Trong khi đời sống nhân dân vẫn còn không quá giàu có thì số sưu thuế vẫn chưa được nhà vua quan tâm cho lắm. Với những chính sách như chế độ lộc điền, chế độ quân điền, xã hội đã được phân hóa rõ ràng với hai giai tầng khá nét là địa chủ- tá điền. Với những chính sách như thế này, tồn tại trong nó những hạn chế nhất định khi vẫn còn mang tính giai cấp khá nan giải. Trói buộc nhân dân vào sưu thuế để phục vụ cho nhà nước trong khi nền kinh tế nông nghiệp lại là phương diện để tạo sự phát triển cho nền sản xuất hàng hóa. Việc đề cao Nho giáo cũng là một trong những hạn chế của cải cách này khi ông đã quá phụ thuộc vào Nho giáo và xem nó là chuẩn mực đạo đức phong kiến đương thời; không thể nói Nho giáo là không phù hợp nhưng rõ ràng việc quá tôn sùng là việc không nên và chúng ta cần thoát khỏi nó.
Hơn hết, tầng lớp quý tộc quan liêu lại được đề cao và coi là cao nhất trong xã hội; họ được sủng ái khá nhiều và được rất nhiều bổng lộc khác nhau. Họ được hưởng những đặc quyền mà chỉ có tầng lớp này mới có thể đạt được. Họ được phép mặc những bộ trang phục, ở những ngôi nhà, sử dụng đồ đạc mà chỉ có họ mới có thể được phép dùng, còn dân thường không được phép. Trong lúc đó, nô tì lại bị đè bẹp và xem như là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội đương thời; họ bị xem như là những “đồ dùng” và không được coi là thần dân của Nhà nước. Nô tì chỉ cần chống lại gia chủ của mình thì coi như phạm tội là bị tử hình là điều không thể tránh khỏi. Có thể thấy, tồn tại trong xã hội lúc bấy giờ là vấn đề giai cấp khá rõ nét. Những cải cách và quyết sách do Lê Thánh Tông đề ra mang trong nó những tồn tại, hạn chế nhất định khi ông còn khá bảo vệ cho quyền lợi của nhà nước và mang tính giai cấp khá rõ ràng.
Có thể thấy, triều đại nào, thời đại nào cũng sẽ phải gặp những khó khăn nhất định. Nhưng từ trong những khó khăn ấy, mới xuất hiện những nhà canh tân lỗi lạc và tiến bộ. Mặc dù vẫn mắc những sai lầm, hạn chế không đáng có nhưng họ là những người tiên phong cho công cuộc canh tân đất nước khi gặp khó khăn. Trên đây là 3 trong số những nhà cải cách đáng chú ý trong thời cổ trung đại của lịch sử Việt Nam. Họ là những nhà canh tân có tầm nhìn, có sức vóc, có tài năng của lịch sử dân tộc ta. Dù là Khúc Hạo hay Hồ Qúy Ly hay Lê Thánh Tông và sau là nhiều nhà cải cách khác thì họ vẫn là những bậc thầy đáng để chúng ta học hỏi và noi gương theo tinh thần anh dũng của họ; họ đã nhận thấy những bất cập trong xã hội và tiến hành đổi mới đất nước trên nhiều phương diện đời sống, xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự. Thời gian nối tiếp thời gian, những nhà cải cách sau học hỏi và rút kinh nghiệm từ những sai lầm cũng như thành công của những người đi trước để góp phần vào công cuộc canh tân của mình. Trên hết, chúng ta nhận thấy ở đây tinh thần dân tộc và lòng tự tôn rất cao của các nhà cải cách ấy; họ là những người đặt nền móng cho sự thay đổi lúc đất nước cần. Không những có sức thay đổi ở đương thời mà những cải cách, quyết sách của họ vẫn còn giá trị cho đến thời nay. Rõ ràng, chúng ta sẽ phải học hỏi những vị tiền bối ấy rất nhiều khi ở thời đại ấy, họ đã có những tư duy khá tiến bộ và sắc sảo. Đất nước dẫu có khó khăn nhưng những chính sách, quyết định của họ đã đưa dân tộc lên vùng có ánh sáng mới, thay đổi cục diện xã hội đương thời.